Giới thiệu chung

TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM

TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM

1. Giai đoạn 1945 – 1959

Sau khi giành được độc lập, cơ quan phụ trách về quản lý đất đai của Phủ Toàn quyền Đông Dương là Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế Trực thu được Bộ Tài chính tiếp nhận (Sắc lệnh số 41 ngày 03 tháng 10 năm 1945 của Chủ tịch nước). Sau đó ngành Địa chính được thiết lập (Sắc lệnh số 75 ngày 29 tháng 5 năm 1946 của Chủ tịch nước) với tên gọi Nha Trước bạ - Công sản – Điền thổ, kèm theo đó là hệ thống các đơn vị trực thuộc ở 03 cấp tỉnh, huyện, xã nhằm duy trì, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt quy hoạch thủ đô Hà Nội (1959)

( Nguồn tài liệu Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Từ năm 1953 – 1958 ngành Quản lý đất đai với tên gọi là Sở Địa chính thuộc Bộ Tài chính, hệ thống các cơ quan ngành dọc của Sở trực thuộc Uỷ ban hành chính các cấp để thực hiện kế hoạch hoá và hợp tác hoá nông nghiệp nông thôn.

Các hoạt động quản lý đất đai – địa chính trong giai đoạn này chủ yếu là bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ngành Địa chính đã có một số thay đổi về hoạt động góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ huy động thuế nông nghiệp phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Sau thắng lợi của cuộc Cỉa cách ruộng đất ở miền Bắc, ngành Địa chính đã thực hiện tốt các nhiệm vụ là tổ chức đo đạc, lập bản đồ giải thửa và sổ sách địa chính để nắm diện tích ruộng đất, phục vụ việc kế hoạch hoá và hợp tác hoá nông nghiệp, tính thuế ruộng đất, xây dựng đô thị.

2. Giai đoạn 1960 – 1978

Do sự phát triển quan hệ ruộng đất ở nông thôn và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, ngành Quản lý ruộng đất được thiết lập (Nghị định số 70-CP ngày 09 tháng 12 năm 1960 và Nghị định số 71-CP ngày 09 tháng 12 năm 1960 của Hội đồng Chính phủ), chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ Nông nghiệp với nhiệm vụ quản lý mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp. Hệ thống quản lý ruộng đất được tổ chức thành 04 cấp: Trung ương là Vụ Quản lý ruộng đất; cấp tỉnh là Phòng Quản lý ruộng đất; cấp huyện là Bộ phận quản lý ruộng đất; cấp xã là cán bộ quản lý ruộng đất.

Cánh đồng lúa 5 tấn tỉnh Hải Hưng

( Nguồn tài liệu Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu của quản lý ruộng đất là: "Quản lý việc mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp", ngành Quản lý ruộng đất đã có đóng góp to lớn trong việc mở rộng và sử dụng có hiệu quả diện tích đất nông nghiệp, xây dựng kinh tế hợp tác xã và phát triển nông thôn.

3. Giai đoạn 1979 – 2002

Để tăng cường công tác quản lý đất đai, thống nhất các hoạt động quản lý đất đai vào một hệ thống cơ quan chuyên môn, năm 1979, Tổng cục Quản lý ruộng đất được thành lập – "Tổng cục Quản lý ruộng đất là cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng, thống nhất quản lý Nhà nước đối với toàn bộ ruộng đất trên lãnh thổ cả nước nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ đất đai, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao đối với tất cả các loại đất" (Nghị quyết số 548/NQQH ngày 24 tháng 5 năm 1979 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội và Nghị định số 404-CP ngày 09 tháng 11 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ). Cơ quan qản lý đất đai ở địa phương được thành lập theo 03 cấp: Cấp tỉnh là Ban Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; cấp huyện là Phòng Quản lý ruộng đất, cấp xã là cán bộ quản lý ruộng đất.

Tổng bí thư Đỗ Mười làm việc với Tổng cục Địa chính

( Nguồn tài liệu Bộ Tài nguyên và Môi trường)

Trước yêu cầu về tổ chức lại các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường công tác quản lý đất đai, năm 1994 Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính (Nghị định số 12/CP ngày 22 tháng 02 năm 1994 và Nghị định số 34/CP ngày 23 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ). Sáu khi thành lập Tổng cục Địa chính, các địa phương đã thành lập Sở Địa chính trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, một số thành phố lớn thành lập Sở Đại chính – Nhà đất. Tại cấp huyện là Phòng Địa chính (hoặc Phòng Địa chính – Nhà đất) trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, tại cấp xã, có cán bộ địa chính xã.

4. Từ năm 2002 đến nay

Theo định hướng thành lập các Bộ đa ngành, năm 2002 Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập (Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội nước CỘng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ hợp thứ nhất ngày 05 tháng 8 năm 2002 và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ). Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường có các đơn vị chuyên trách quản lý nhà nước về đất đai là Vụ Đất đai, Vụ Đăng ký và Thống kê đất đai và các đơn vị sự nghiệp trong lĩnh vực quản lý đất đai là Trung tâm Điều tra, Quy hoạch đất đai và Viện Nghiên cứu địa chính. Bên cạnh đó, còn có các đơn vị khác thuộc Bộ tham gia vào các nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai. Ở địa phương thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường trên cơ sở hợp nhất Sở Địa chính, các đơn vị quản lý nhà nước về môi trường, địa chất khoáng sản, tài nguyên nước. Chức năng quản lý nhà nước về đất đai do một số đơn vị cấp phòng trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện, cấp huyện là Phòng Tài nguyên và Môi trường, cấp xã có cán bộ địa chính xã và thường kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng và một số chức năng quản lý nhà nước khác thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

Để tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường, năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2008 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tổng cục Quản lý đất đai được thành lập trong Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm tập trung các hoạt động quản lý nhà nước về đất đai ở cấp Trung ương về một đầu mối chuyên trách. Về cơ cấu tổ chức bộ máy, đến nay Tổng cục Quản lý đất đai có 14 đơn vị trực thuộc, trong đó có 09 đơn vị quản lý nhà nước, 01 đơn vị nghiên cứu và 04 đơn vị sự nghiệp.

Trụ sở Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Nam Từ Liêm, Hà Nội

( Nguồn tài liệu Bộ Tài nguyên và Môi trường)